




Ám ảnh mỗi khi về quê
Quê em ở Ninh Bình, một vùng quê được bao phủ bởi núi đá trùng điệp, người thì thưa mà đất thì rộng, rừng cây um tùm bốn phía. Đến tận bây giờ, những năm của thế kỉ 21 mà ở quê em vẫn còn diễn ra chuyện hổ vào làng vồ trâu, trăn gió nuốt trộm dê, bò.
Để trị hổ, trăn thì còn có súng đạn, bẫy, lưới,… nên người dân quê em cũng chẳng ngại gì lắm. Có người còn mừng vì chỉ mất vài con dê mà đổi lại được một con hổ hay một con trăn, bán rẻ cũng phải vài chục triệu. Nhưng dù có không sợ trời không sợ đất thì người dân quê cũng luôn mang trong mình nỗi sợ mơ hồ về một thứ không rõ ràng, đó là Ma. Sau đây em xin tổng hợp lại những chuyện em được nghe kể từ chính người thân của mình, và những câu chuyện em cóp nhặt được khi đi chơi ở những huyện khác trong tỉnh.
Chuyện thứ nhất: Ma chó
Đó là vào những năm 60, khi ông em vừa từ chiến trường Điện Biên Phủ trở về. Ông em kể lại rằng: Hôm đó, ông vừa hoàn thành xong một số việc giấy tờ, họp bàn với anh em trong đơn vị về việc tập kết để chuẩn bị vào Nam. Sau buổi họp thì đã xế chiều, anh em chào tạm biệt nhau rồi ai về quê người nấy, hẹn ngày 25 tháng Giêng, hai năm sau thì tất cả tập chung tại trụ sở của đơn vị. Nóng lòng muốn về nhà sau gần chục năm xa vợ xa con, ông em bắt ngay chuyến tàu cuối cùng của ngày hôm đó để về quê. Lúc ông xuống đến gha Ghềnh thì đã muộn lắm rồi, nhìn lên đồng hồ treo ở nhà ga thì bây giờ là 2 giờ sáng. Nhưng đang nóng lóng về nhà, lại thấy có sáng trăng nên ông quyết định đi xuyên đêm về nhà. Tính ông em vốn bạo gan, lại chẳng tin vào chuyện hồn ma bóng quế nên ông bỏ ngoài tai lời khuyên từ những người khách ở ga, khuyên ông nên ở lại đến sáng hãy về vì dạo này có lắm lời đồn về ma quỷ ở ngã ba vào thôn, ông cứ thế thẳng bước đi về, lòng chỉ mong về sớm được lúc nào hay lúc ấy. Đêm hôm đó, một mình ông đi trên con đường đất dài hơn 6 cây số từ ga Ghềnh về làng. Hai bên đường toàn là cây cối rậm rì, cách vài trăm mét mới có một vài nhà, thời đó lại chẳng mấy nhà có đèn điện, nên nhìn ngút tầm mắt chỉ thấy toàn cây là cây, thỉnh thoảng tiếng chim khắc ăn đêm lại kêu khé khé đến rợn người. Cơ mà ông em chẳng sợ, lại có sáng trăng nên cứ sải bước mà đi, vừa đi vừa nghĩ xem giờ này ở nhà đang làm gì. Đi được một lúc thì ông em bống thấy một con chó trắng tinh đi trước, cách ông một quãng ngắn, ông em thấy lạ liền bước nhanh về trước xem sao, vì ở quanh đây làm gì có mấy nhà mà có chó chạy ra đến tận đây, lại còn chó trắng tinh như chó nhà bọn theo Tây. Nhưng lạ là ông đi nhanh thì con chó cũng đi nhanh, ông đi chậm thì còn chó cũng đi chậm, lúc ông thử đứng lại thì con chó cũng đứng lại, mấy lần như vậy thì ông em nhận ra rằng cái thứ đi trước mình chẳng phải là chó mèo nhà nào cả. Ông em liền nhặt vài cục đá, đinh bất ngờ lao tới gần ném con chó xem nó làm sao, nghĩ sao làm vậy, ông em vơ bên vệ đường vài viên đá to bằng 2 nắm tay, ông ném liền ba phát: "Cục! Cục Cục…!" , tiếng đá chạm đất nghe đinh tai, nhưng ông em tự lại thấy lanh gáy vì từ nãy đến giờ cả ba phát ông em ném đều trúng lưng và đầu con chó, nhưng tại sao lại là ba tiếng đanh như vậy, mà con chó thì chẳng có phản ứng gì, vẫn lững thững đi trước ông. Ông em lúc này bắt đầu thấy ghê tay rồi, nhưng ông không biết sợ là gì nên lại cầm đá, lần này ông dồn sức ném thật mạnh, thì bống ùm một cái, con chó nhảy luôn xuống cái ao hoang bên đường rồi mất hút.




Vừa thủ con dao, ông em vừa đi tiếp, nhưng lần này ông bước thận trọng hơn. Đi tiếp đến đầu cầu thì con chó không còn giữ khoảng cách với ông nữa, ông em đến gần nó hơn. Và lần này thì ông thực sự thấy lạnh toát ống lưng khi thấy con chó bống nhảy phốc lên trên thành cầu, từ từ đi bằng hai chân sang bên kia cầu, cái thành cầu chỉ rộng bằng phần ba quyển vở học sinh, vậy mà con chó đi không hề chao đảo. Giờ thì ông em bắt đầu thấy lạnh dần từ sống lưng lên gáy, ông vẫn tiến tiếp, mắt ông theo sát con chó, tay chỉ chực vung con dao găm ra tấn công. Con chó đi tiếp đến đầu cầu bên kia, rồi nó ngồi trên cái trụ cầu, quay đầu lại nhìn chăm chằm vào ông, cái mõm hơi há ra như đang cười.

Tobe Continued……..
Chuyện thứ hai: Nhà thầy học
Cách đây hơn hơn 70 năm, khi ấy ông em vẫn còn là một thầy khóa, mang trong mình ước mơ khoa bảng để làm rạng danh tổ tiên. Hồi đó chữ nho và thi cử kiểu cũ vẫn còn thịnh ở các làng quê, những người đồng niên với ông đều theo học một ông tú trong làng. Nhưng vì ban ngày ai cũng phải lo việc đồng áng, buôn bán nên đến tối lớp học mới bắt đầu. Lớp học của ông nằm trên một quả đồi thoải thoải, biệt lập với xóm làng xung quanh. Suốt 2 năm đầu mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường, tối đến thì học, học xong buổi thì về, trò nào nhà xa thì ngủ lại nhà thầy, cho đến một hôm.
Đêm hôm đó, ông tú dạy xong thì phải sang làng bên chuẩn bị đám cưới cho con của một người bạn, trước khi đi, ông tú dặn học trò ở lại ngủ thì cẩn thận, lại cắt cử thêm mấy trò lớn tuổi nhất ở lại để trông nom bọn trò ấu học. Ông em tuy không nằm trong nhóm cắt cử ở lại nhưng nể lời bạn nên cũng ngủ lại vì chẳng mấy khi anh em có dịp hàn huyên, nhưng ông không thể nào ngờ nổi đêm nay lại là đêm khởi đầu của một chuỗi biến cố không chỉ với mình ông mà còn với cả cái làng nhỏ vốn bình yên này .
Thầy đi được một lúc thì mấy trò lớn liền bàn ngay chuyện phân chia chỗ sao cho hợ lý. Bàn đi bàn lại một hồi thì mấy anh em liền hò nhau trải chiếu ra hiên mà nằm vì trong nhà vừa chật vừa nóng, mà nằm ngoài thì anh em lại được nói chuyện dễ, thích thì thức đến sáng mà bàn luận thơ văn cũng được.



Chuyện thứ ba: Thầy phù thủy
Vào những năm trước khi Chiến tranh Biên giới xảy ra, ở quê em ngoài những nghề như làm nông, thủ công, buôn bán thì còn có một nghề rất đặc biệt, mà không phải ai cũng làm được. Đó là nghề thầy phù thủy, hay như người tàu thường gọi đó là "bọn thuật sĩ giang hồ".

Các cụ kể lại rằng, người làm thầy phù thủy thì phải là nam, phải có dòng máu phù thủy trong người( nghĩa là trong dòng họ phải có người đã từng làm nghề này và đạt đến trình độ "tốt nghiệp"). Những người làm nghề này thì phải tuân theo lời thệ từ lúc bái sư đến cuối đời, nếu ai sai phạm thì sẽ bị trời phạt



Thầy phù thủy cũng chia theo cấp bậc, dòng phái y như người ta học đại học bây giờ, có thầy giỏi thầy thường, có dòng chính tông, có dòng chi phái, dòng mạnh, dòng yếu,….nhưng được người đời biết đến nhiều nhất là hai dòng Nam tông và Bắc tông. Dòng Nam tông là dòng bùa chú được sáng tạo nên bởi những người ở phía nam Trung Quốc như vung Vân Nam, Tứ Xuyên, Miêu Cương,… và những nước phương Nam như nước ta hay Miến Điện, Xiêm,... Loại bùa chú Nam tông này dễ làm dễ sử dụng nhưng lại độc ác vô cùng, người học dòng này có thể sử dụng bùa chú để làm mọi chuyện, từ việc sai ma quỷ tát nước, đắp bờ đến việc vẽ một lá bùa để làm cho nhà hàng xóm bệnh tật liền vài ba đời đều được. Chỉ có điều là dòng bùa chú này sức mạnh không cao bằng Bắc tông, lại độc địa khó lường, chỉ gieo vạ cho con cháu đời sau nên không mấy người học. Còn dòng bùa chú Bắc tông là dòng bùa chú được coi là "chính thống" nhất, nhưng cũng khó sử dụng nhất, đây chính là loại bùa chú mà em muốn nói đến trong chuyện. Để học bùa chú Bắc tông rất khó, ngoài việc có dòng máu ra còn cần phải có trí thông minh, lính hội tốt, chịu nhiều gian nan khổ cực mới được sư phụ chấm sắc cho xuất sư, được tự do hành nghề phù thủy. Bùa chú Bắc tông nhìn trông y như loại bùa màu vàng mà nhà các bác hay dán trên cửa ý, chỉ khác cái là bùa Bắc tông thì nhìn rất đẹp nhưng chả ai hiểu nó viết cái gì. Nhưng để vẽ được một tờ bùa loại này thì phải lập đàn cúng tế, chọn ngày chọn giờ, bày trận bát quái ngũ hành, lục đinh lục giáp rất cầu kì, phức tạp.
Giải thích sơ qua về bùa chú chút để lòe các thím



Nhưng đến tháng 3 năm 1946 thì mọi chuyện ở quê em bắt đầu biến động. Khởi đầu là những làng xung quanh làng em, bắt đầu từ làng ngoại. Cứ đêm đến là đường làng lại có tiếng rục rịch rồi ào ào như có cả đoàn quân đi qua vậy, lắm nhà còn nghe thấy cả tiếng cây đổ ầm ầm, từ lúc nửa đêm đến đến gà gáy, không lúc nào ngớt. Người dân quê ban đầu tưởng là trộm cướp vào làng nên hò nhau đánh trống khua chiêng đổ xô ra đường. Nhưng ra đến ngoài thì lại lặng ngắt như tờ, cây cối vân ý nguyên. Vài lần như vậy, người làng biết có chuyện chẳng lành nên ban ngày thì các cụ bô lão ngồi trong đình làng họp bàn cách giải quyết, cứ đến sẩm tối là lùa gà chó vào chuồng, cài then khóa cổng không lai vãng ra ngoài. Trước đây thì nhà này qua nhà kia ngồi chơi chè nước đến đêm mới về, trẻ con thì tụ tập chơi đuổi bắt trên đường làng,… náo nhiệt đông vui vô cùng. Còn giờ thì cả làng quê im lìm như ngôi làng chết, bọn chó trong làng thì cứ đến tối là cụp đuôi chui vào trong gầm giường ư ử cả đêm, trẻ con cũng sợ đến mức không dám khóc. Nhưng nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói, chỉ có điều là 2 tháng sau thì gà vịt trong làng cứ mất dần, mỗi đêm lại mất vài con, có nhà còn bị mất cả con trâu, mà sáng hôm sau ra xem chuồng gà chuồng trâu thì chẳng có dấu vết gì, vẫn cửa khóa, chằng xích y như đêm hôm trước. Dân làng đó nghi là có trộm nên đổ xô đi lùng, đến một hôm thì có người báo là thấy có dấu máu đi vào trong núi. Thế là kẻ cuốc người gậy kéo vào trong núi xem đứa nào mà táo tợn đến thế. Nhưng đi vào đến quả núi phía trong thì cả làng mấy trăm người cùng đứng sững lại vì trước mặt họ là một đống xác gà vịt, trâu bò đang phân hủy, xác chất cao như núi, hôi thối nồng nặc. Thế là chẳng ai bảo ai, cắm đầu cắm cổ chạy về làng. Về đến sân đình làng thì mọi người mới bắt đầu xì xào bàn tán xem thứ gì mà lại gây ra chuyện như vậy. Người thì bảo tại ma quỷ, kẻ thì đổ tại làng có đứa ăn ở thất đức nên thánh thần giáng tội cả làng, bây giờ mới chỉ là trâu bò, sợ sau này đến cả người cũng chết.
Đến một tuần sau thì chuyện không còn ở trong phạm vi làng ngoại nữa, đến cả làng Đông, làng Nam, làng Bắc đều có trâu bò gà vịt chêt hàng loạt. Lúc này thì mọi người mới hoảng loạng lên, đi khắp nơi mời thầy này cô nọ về cũng bái trấn yểm, hao tốn bao nhiêu tiền của mà mèo vẫn hoàn mèo. Nghe tin bên làng em có mấy ông học thành tài phép của người Tàu nhưng mấy ông lại chẳng có tiếng tăm gì nên người các làng kia cũng nghi ngại, không mời từ đầu. Còn nước còn tát nên họ cử ngay mấy cụ bô lão trong làng sang bên làng em xin mấy ông kia cứu giúp, hứa sẽ hậu tạ đầy đủ. Mấy ông thầy già nhiều tuổi thì tỏ vẻ ái ngại nên khéo léo từ chôi, còn 2 ông thầy trẻ mới học xong thì hăng hái đi ngay, mừng như bắt được vàng vì lần đầu tiên được thử tài học của mình. Nhưng sau khi đi xem qua địa thế các làng kia và vào tận trong quả núi có đống xác trâu bò xem tình hình thì 2 ông này mới thấy sợ. Nhưng lỡ nhận lời rồi ma không giúp thì lại trái với lời thệ lúc bái sư nên hai ông đành phải làm. Ba ngày sau, hai ông cũng dân làng lập đàn từ lúc sáng sớm. Bày ra đủ thứ trận đồ, cờ phướn, mỗi ông mặc một đạo bào cánh hạc, một trắng một đen, tay cầm kiếm gỗ, vừa bắt quyết vừa lầm nhẩm đọc chú pháp. Sau khi cúng tế xong thì một thời gian dài không thấy mấy làng kia bị chết gia súc gia cầm gì nữa, tiếng động ban đêm cũng hết, cuộc sống lại trở về bình thường. Nhưng bên làng em thì bắt đầu có
Chuyện thứ ba: Thầy phù thủy (tiếp)
Sau cái đợt hai ông thầy kia đi giúp lang bên cạnh trừ tà thì mấy ông thầy làng em bắt đầu nổi tiếng, người ở nơi khác kéo đến rất đông. Nhà thì xin giải hạn, nhà thì xin xem chuyện tình duyên, nhà thì nhờ tìm một tổ bị mất,…. Nhưng chủ yếu là hai ông thầy kia nhận, còn những ông khác thì đều tìm cách từ chối, rất ít người xin được. Chẳng mấy chốc mà hai ông thầy kia giàu lên trông thấy, chỉ sau có 2 tháng mà nhà mỗi ông dựng lên một cái điện to bằng cả chục gian nhà thường



Đang yên bình như vậy, nhà hai lão giàu thì càng ngày giàu lên, người làng em cũng được hưởng sái vì tiền bán vàng hương, đồ ăn thức uống cho khách thập phương, và đặc biệt là bọn trẻ con thì lại xôi oản ăn không hết, bánh trái ê hề. Thế rồi đùng một cái, hai lão treo cổ tự tự ở cây gạo cuối làng, nhà cửa cháy rụi không còn một tý gì. Sáng hôm hai lão treo cổ, mấy ông thầy pháp còn lại trong làng đều cùng vơi người làng đỡ hai cái xác ấy xuống rồi làm lễ siêu độ. Đang làm lễ thì tự nhiên bát hương bốc cháy đùng đùng, lửa xanh lè như ma trơi, bài vị, nhang đèn cúng cho hai lão kia đều đổ dúi dụi. Sáu ông thầy còn lại vội bảo mọi người ổn định, rồi mỗi ông bắt quyết một kiểu, đứng theo phương vị lục đạo mà niệm chú. Mọi người thấy kì dị, đang bàn tán nhau thì bỗng nhiên, mây dông vần vũ, gió thổi cát bụi mù mịt, cả làng hoảng lên, thi nhau lạy xin ông trời đừng giáng họa. Bất ngờ, một tia sét đánh thẳng xuống hai cái quan tài, quan tài bốc cháy phừng phừng, xương cốt bên trong cũng cháy theo.

- Hai ông này trước đây giúp người mấy làng nọ trừ ma quỷ, nhưng lại không biết lượng sức mình, động vào cả ma quỷ chết trận từ đời Trần, Hồ đến bây giờ, nên bị chúng nó bào thù. Nhưng đấy mới chỉ là một tội, còn tội nữa là dùng nghề phù thủy để đổi lấy giàu sang, buôn thần bán thánh đổi lấy tiền tài, danh vọng, phạm vào lời thệ lúc bái sư nên giờ bị trời phạt chết không toàn thây, chẳng được mồ yên mả đẹp!


Sau vụ đó, tưởng mọi chuyện chẳng có gì nữa, người dân quê lại trở về với công việc đồng áng, buôn bán như cũ, khách đến làng em cũng ít dần. Thế rồi, vào tháng 7, năm năm sau thì mọi chuyện mới thức sự bắt đầu. Đầu tiên là vụ ông em và mấy người bạn học thấy ma ở nhà ông tú, chuyện chỉ đơn giản có vậy nên cũng chẳng ai chú tâm lắm.Bẵng đi một thời gian tưởng không có gì thì bất ngờ, vào đúng ngày mùng sáu tháng tư năm sau, tự nhiên gà chó trong làng chết sạch, không còn lấy một con, người làng xót của, khóc lên khóc xuống

Nhưng vừa lên bờ thì cả hai thấy sống lưng lạnh toát, hai người từ từ nhìn ra sau, ngay lập tức cả hai cung hét lên kinh hoàng. Cái mà họ đang thấy là ông S đang đứng trên một tấm vãn chỉ rộng bằng tờ giấy bản mà ông không chìm, còn cái người ông thì xoay tít trên cái ván y như chong chóng, ông S tự nhiên cười the thé, từ xa mà tiếng vang ý như ngay bên cạnh. Dân làng bấy giờ đổ xô ra thì thấy cảnh tượng kì dị này, mặt ai nấy cắt không còn giọt máu , vội vàng cho hơn chục người bơi giỏi rồi cuộc dây vào người, bơi ra cứu ông S. Cứu được ông S vào bờ rồi thì ống lại giãy đành đành như cá, mắt trắng dã, miệng hét lanh lảnh: "Thả tao ra! Thả tao ra!" rồi bất chợt, mắt ông lại đỏ rực lên như hòn lửa, giọng ồm ồm, gầm ghè: "Chúng mày lấy hai cái xác cho kia để yểm được bây giờ chứ yểm được mãi hả! Để tao cho chúng mày yểm nhớ? Yểm này! Yểm này! Yểm này!" Cứ mỗi tiếng "yểm này" người ông S lại giật lên, máu mũi máu mồm trào ra như hai ông kia, ai vào ghìm lại cũng không được. Một lúc sau thì ông T và ông C chạy đến, hai ông vội bắt quyết, ấn lên trán ông S. Nhưng tay vừa chạm vào ông S thì cả hai ông bắn ra như chạm phải điện, ngất ngay tại chỗ. Mọi người vội võng ông T và ông C về đình làng rồi xức dầu, xoa bóp cho hai ông tỉnh lại. Vài tiếng sau thì hai ông tỉnh lại, ông này nhìn ông kia rồi thở dài thườn thượt, ông C lẩm bẩm:" Một đêm mà mất ba người! Ba người! Ba người!" Tất cả xúm vào hỏi hai ông chuyện gì đã xảy ra. Ông T bảo:
-Hôm nay bọn tôi tính nhốt hết oán hồn, ma quỷ lại rồi phong kín không cho gây họa đến đời sau. Nhưng bất ngờ ông B và ông D lại bị vậy nên để xổng mất bốn cái oán linh! Hai ông chắc thấy có lỗi lắm nên bảo để thi hài lại cho tôi đem đi trấn yểm cho làng. Nhưng mà chỉ yểm được trong vòng 25 năm thôi vì mấy cái oán linh này mạnh lắm, còn thành hoàng làng thì đang chịu phạt nên không làm gì được chúng nó. Tôi đang tính là trong 25 năm đó làng mình sẽ đi tìm một người đủ giỏi để trấn áp nó. Còn số tôi già yếu sống nay chết mai, không biết sao mà lần!- Nói đoạn, ông T lại thở dài sườn sượt,ông C nhìn ông cũng thấy buồn



Người làng nghe vậy thì dựng cả tóc gáy, nhưng vẫn yên tâm phần nào vì còn được 25 năm không bị quấy phá. Có gì thì 25 năm này vẫn còn nhiều thời gian để tìm thầy này thầy kia.
Nhưng thực sự thì 25 năm đó không hề yên ổn như mọi người mong đợi, vẫn tiếp tục có những đợt sóng ngầm


Chuyện thứ tư: Chân nhân bất lộ tướng
Như đã nói trong chuyện trước, làng em có một thời hạn là 25 năm không bị mấy cái oán linh kia phá. Nhưng trong ông T dù giỏi cũng không chỉ đủ sức trấn yểm mấy cái oán linh bị xổng mất kia thôi, hơn nữa thành hoàng làng lại đang chịu phạt nên bây giờ, cửa âm của làng em gần như bỏ trống. Nói là gần như vì đã có hồn của hai ông B và D giữ cho làng khỏi mấy cái ác linh rồi



Cũng may sao là cụ tổ họ nhà em lại có tướng Bạch Hổ Trấn Sơn



Kể sơ qua về cụ tổ họ nhà em chút: Cụ sống vào thời phù Lê diệt Mạc, là tướng tài của vua Lê, lại có công cùng hai đời chúa Trịnh đánh đuổi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng. Sau khi hết nạn can qua, vua Lê ghi công cụ em vào hàng công thần, lại gả công chúa cho cụ, phong cụ làm phò mã. Cụ tổ vì cảm cái ơn của vua nên dốc lòng thờ vua nên lúc nào cụ nhà em lúc nào cũng chỉ mong diệt được họ Trịnh, đem lại ngôi chính thiên cho nhà Lê. Cũng vì lẽ đó mà không ít lần cụ bị gia hại, nhưng đều may mắn thoát được. Qua bao tranh đấu chốn quan trường hiểm ác mà vẫn không xoay vần được thời cục, ngán ngẩm chuyện thế sự, quan quyền nên cụ cáo quan về ở ẩn, chỉ lo vui thú điền viên. Sau khi cụ mất, nhờ cụ vốn có phúc tướng, lại có mệnh là tướng tinh nên mất rồi lại được phong thần, đạo lại cao hơn cả thổ địa, thành hoàng, đứng ngang với hàng Trung Đẳng Thần.
Nhờ có uy của tổ mà sau bao nhiêu năm, họ nhà em lúc nào thế cũng vững như thành đồng, chưa hề có chuyện quỷ mị xảy ra.



-------------------------------------------
Khoe với các thím chút về dòng dõi quý tộc của mình vậy là đủ, giờ thì sau khi trà nước chán chê, em xin bắt đầu vào câu chuyện chính


Trở lại với cái kỳ hạn nọ, đã 20 năm trôi qua mà chưa có chuyện gì to tát lắm xảy ra, người nhìn thấy ma quỷ. Bị ma trêu thì nhiều lắm, cơ mà chẳng có gì hại đến người. Qua 20 năm yên ổn, giờ thì ông T đã mất được vài năm, những thầy phù thủy cũng thời cũng đều đã khuất núi lâu. Giờ thì ở quê em lại có một lớp thầy pháp mới, tuy không cao tay bằng lớp trước nhưng cũng được xếp vào hàng giỏi, lớp thầy này gồm có 3 ông là thầy L, thầy A và thầy N. Ba ông này thì có hai ông A và N là tuân thủ rất nghiêm lời thệ, ai bảo giúp gì thì xét khả năng mình đủ không rồi mới nhận lời, còn gia chủ thí cho bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, nhà nào nghèo thì không lấy tiền mà còn giúp thêm gạo, muối. Duy chỉ có ông thầy L là tàn tệ nhất trong số những thầy pháp từng ở làng em. Ông này ham tiền hơn mạng sống, ai đến xin giai hạn hay xem nhà cũng đều phải có chút gì đó gọi là quà gặp mặt. Lao này lại còn phạm vào rất nhiều điều đại kị như nữ sắc, một mình ông mà lấy tới 5 vợ, lại còn phạm vào tội bất hiếu, rõ ràng nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng toàn để mẹ già ăn gạo xấu, rau lạt dưới bếp,còn nhà mình thì ăn thịt, chả, tôm, cá, toàn là cao lương mĩ vị


Còn hai ông N và A thì vốn dĩ tư chất đã không được như các thầy lớp trước, lại không gặp được sư phụ giỏi, chủ yếu là dựa vào cần cù, chăm chỉ mà luyện thành tài vậy. Thế rồi chuyện gì đến cũng phải đến, một đêm nọ, lão L vừa đi cúng đám pháp sự suốt hai ngày ở làng bên về thì bị một tia sét đánh trúng ngay sau lưng, chỉ cách lão có vài bước. Lão kinh hoàng chạy một mạch về nhà, vừa vào đến sảnh lớn thì lão rú lên kinh hãi. Người làng thấy có động liền đổ xô đến xem, đập vào mắt họ là một cảnh tượng rợn người: Trên xà ngang cả năm bà vợ tuổi mới đôi mươi của lão đều treo cổ chết, tóc người nào người nấy đều đã bạc trắng.



Mọi người thấy ông cứ đủng đỉnh đi vào thì cản lại, bảo ông mà vào là nó vật chết ngay đấy, ông K chỉ cười không đáp, rồi lại tiến về gốc cây gạo. Mọi người ai cũng sợ nên không dám theo giữ chân, tất cả đứng từ đằng xa xem ông K đinh làm gì. Ông K cứ thế tiến ngày một gần tới gốc gạo, con quỷ- lúc này đnag nhập vào lão L thì cứ chỉ thẳng ông K mà mắng chửi, quát tháo. Ông nhẹ nhàng rút trong túi đồ ra một cây gậy vông dài bằng cánh tay, lúc này thì con quỷ đã bắt đầu im rồi, nó nhìn ông gờm gờm, mắt long sòng sọc. Thế rồi ông nhẹ bứt một sợi tóc trên đầu, quấn vào cây gậy rồi lầm rầm đọc gì đó. Giờ thì con quỷ mới lộ ra là nó đang sợ ông K, nó bắt đầu khóc lóc nỉ non, van vỉ đủ điều xin ông cho nó một con đường sống, tiếng khóc, van nài như vọng về từ một cõi xa thẳm, bao nhiêu người cũng đứng đó mà ai cũng thấy lạnh toát sống lưng. Ông K chẳng nói chẳng rằng, lại gần cây gạo, cầm gậy vông vụt liền bảy phát vào gốc, từ cây gạo, người ta nghe thấy tiếng hét thất thánh rồi tiếng la oai oái, mấy chỗ bị vụt trên gốc gạo cứ có một dòng nước đỏ ộc như máu, chảy ri rỉ ra. Vụt xong phát thứ bảy thì lão L trên cành đứng thẳng tưng người một cái, rồi đổ ra, rơi uỵch xuống đất, lão chết ngay tại chỗ. Sau đấy thì ông K lẳng lặng đi về, không nói thêm câu nào. Còn hai ông A và ông N mới đầu thì nhìn ông K một cách kinh ngạc , nhưng khi vừa thấy những việc ông làm và thấy hình săm trên cổ tay ông thì cả hai cùng kính cẩn đặt tay phải lên ngực, cúi người đứng nép sang một bên nhường đường cho ông K.


Vậy rốt cuộc thì ông K là ai mà lại cao tay ấn đến vậy, và hình săm trên tay ông có ý nghĩa gì mà khiến hai ông thầy kia phải kính cẩn như thế? Mọi chuyện chỉ có bố em và hai ông thầy kia biết, còn quá khứ của ông K thì đó là cả một câu chuyện dài về tình yêu, gia tộc, máu và nước mắt


……Tobe Continued…..
Chuyện thứ năm: Quá khứ của một người vô danh
Mải type mãi không để ý thời gian, em đi ăn cơm chút xíu xong lại nhào về ngay để kể tiếp cho các thím yêu vấu

Ông K vốn gốc là người Tàu, nhưng ông quê ở tỉnh nào bên đó thì cả làng chẳng ai biết, chỉ biết rằng ông đến làng từ năm 50, năm năm sau khi cái kì hạn kia bắt đầu. Là người nước khác nhưng ông K lại nói tiếng Việt rất sõi, lại còn nói được cả tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hà Lan, tiếng Anh nên dân làng ai cũng ngưỡng mộ ông vì cái vốn chữ. Tuy giỏi nhiều ngoại ngữ như vậy, lại rất nhiều lần có cán bộ về mời ông đi làm phiên dịch, lương tháng mấy trăm đồng bạc, là cả một giấc mơ xa vời với nhiều người thời bấy giờ. Nhưng ông khước từ tất cả, chỉ ở lại miền quê nghèo này làm nghề cắt tóc, đắp đổi qua ngày, khắp cả tỉnh, người mời ông đến cắt tóc rất đông, nhưng cắt tóc chỉ là cái phụ mà cái chính là họ muốn có một người uyên thâm, hiểu thời thế để nói chuyện, và những người mời ông đến nhà cắt tóc đều là những con người không " tầm thường".



Người biết về quá khứ của ông K chỉ có vài người, trong đó có bố em. Thuở nhỏ, bố em rất thích đọc sách cổ của Trung Quốc, cuốn nào có chữ quốc ngữ dịch ra thì đọc, còn cuốn nào viết bằng chữ Tàu thì đem về nhờ cụ dịch cho nghe. Bố em lại rất thích sang chơi bên nhà ông K vì nhà ông ở trên một quả đồi cao sau xóm, lại không nuôi trâu bò lợn gà gì nên rất sạch sẽ, tuyệt không có ruồi muỗi. Ông K thấy bố em nhỏ nhỏ mà lại thích đọc sách nên quý bố em lắm, mỗi lần đi lên tỉnh cắt tóc là lại tìm mua sách truyện của Nguyên Hồng về cho bố em đọc, ông lại còn rất hợp tính với bố, tính lại hiền lành dễ gần, toàn gọi bố em là chú, xưng anh, mặc dù ông còn già hơn ông nội em cả chục tuổi. Ông K và bố em thân với nhau như bạn vong niên vậy, có chuyện gì ấm ức bố em cũng kể cho ông K nghe, còn ông K thì rất cởi mở với bố em, nhờ vậy mà bố em cũng biết được nhiều điều về quá khứ của ông, một quá khứ chẳng hề bình lặng như con người hiền lành của ông. Một tối, bố em vừa đi câu về, bố câu được khá là nhiều cá, trong đó có một con chép đỏ , bố định đem con này lên cho ông K, còn mấy con khác thì quẳng vào bể nước để bà nội về làm mắm. Tối hôm đó, bố em xách con cá lên nhà ông K thì thấy ông đang bắc bếp nướng ngô, vừa thấy bố em lên thì ông vui hẳn, hồ hợi gọi bố em vào ngồi chung chờ ngô chín thì anh em gặm cho đã. Nhưng vừa thấy con cá chép bố em xách trên tay thì ông K xám mặt lại, ông vội giật ngay khỏi tay bố em rồi ném thẳng vào lò than, rồi lật đật chạy vào nhà trong, đem ra một đạo bùa màu vàng ném luôn vào lửa, kì dị làm sao khi con cá chép đỏ đã chết từ hồi chiều giờ lại nhảy lên tanh tách trong lò, phát ra nhưng tiếng kêu rít đến buốt óc. Ông K liền bịt tai bố em lại rồi hô một tràng toàn tiếng Miên, ngay lập tức con cá ngừng nhảy rồi cháy thành than ngay lập tức. Bố em chưa hiểu chuyện gì xảy ra liền hỏi ông K sao phải làm vậy, ông K chậm rãi trả lời :
-Con cá này là một trong năm cái oán linh xổng mất trong cái năm mà sau ông thầy làng chú làm phép đó. Bây giờ kì hạn đã hết, mà chú lại hợp vía với nó nên nó định hút hồn chú, nhưng mà cụ tổ nhà chú pháp lực cao cường, trấn giữ cho người trong họ rất nghiêm cẩn nên nó không làm gì được. Đêm nay lại là đêm tà nguyệt tụ hội, ma quỷ đắc lợi mà cụ tổ nhà chú lại đến kỳ vào chầu thánh đế nên nó mới chớp cơ hội, giả làm con chép đỏ kia để đêm nay dụ chú ra hồ rồi dìm chết đấy! Nhưng mà số chú còn dài nên trời xui đất khiến thế nào lại để chú mang nó lên chỗ tôi, giờ tôi diêtj được nó rồi nên không lo gì nữa, chỉ ngại mấy cái oán lình kia nó thoăt ẩn thoắt hiện, tôi không biết đâu mà lần nên chưa trừ được.
Bố em nghe xong thì sợ lắm, nhưng ông K trấn an bảo thế là xong rồi, từ rày họ nhà em không sao nữa thì bố em mới bớt sọ. Lúc bình tĩnh lại, bố em mới hỏi sao ông K lại biết phép phù thủy giỏi đến vậy. Sau một hồi trầm ngâm, ông K từ từ kể lại câu chuyện đời mình cho bố em nghe:
"….Trước đây, ông K vốn là dòng dõi danh gia thế phiệt ở bên Tàu, đời đời nối nhau làm nghề phù thủy, lại buôn bán cả ngọc quý, đồ gốm nên giàu có vô cùng.

Chính vì lẽ đó mà ông bị cả họ hắt hủi, cha ông từ con, mẹ ông thì chỉ muốn treo cổ tự tử, ông bị trục xuất ra khỏi dòng họ. Thế là ông đi lang bạt khắp Trung Hoa từ năm 20 tuổi. Và ông đã gặp và yêu một người con gái, (một chuyên tình đẹp như trong phim phải không các thím), bất chấp gia đình cô Liên Liên kia ngăn cản, ông và cô vẫn làm đám cưới. Ngày ông làm dám cưới, người nhà bên kia thuê một thầy pháp về định làm phép cho ông sợ mà bỏ. Nhưng đúng là múa rìu qua mắt thợ, ông thầy pháp kia vừa làm phép định đánh ông thì ông cầm kiếm gỗ đánh bật lại, và thanh kiếm gỗ của ông lúc bay ra đã cắm thẳng vào cổ cô Liên Liên, trước lúc chết, cô vẫn nói là dù sao cô vẫn mãi yêu ông. Như một người điên dại, ông cứ ôm xác người yêu gào khóc, nhà kia thấy con gái chết thì không thèm đến xem sao mà còn nhổ bãi nước bọt, mắng cô là thứ gái lăng loàn bỏ nhà theo trai. Còn ông K lúc này thì đã bị hận thù che mắt, ông thi triển hết mọi thứ mình học được, từ gọi âm binh, thổ thần đến gọi ma quỷ lên giúp sức,…. Ông muốn cả nhà kia phải chết vì chính họ đã gây nên tất cả. Sáng sớm của một tuần sau, cả ngôi làng nhỏ vùng Cam Túc náo động lên bởi tin nhà họ Kha trong làng đã bị cướp giết sạch, treo xác lên rừng táo đầu làng. Những tưởng sau khi trả thù xong ông sẽ thanh thản, nhưng ông lại càng thêm dằn vặt, đau khổ, tự giận chính mình vì nếu mình không yêu Liên Liên thì mọi chuyện đâu có xảy ra. Và rồi ông bị chính quyền địa phương truy bắt vì tội dùng xảo thuật để giết người cướp của, ông lại trốn chạy tiếp. Vài năm sau, sự việc lắng xuống, ông K lại trở về cuộc đời lang bạt, kiếm sống bằng nghề phù thủy. Gần hai chục năm sau, Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa, những người như ông đều bị quy vào tội tuyên truyền mê tín dị đoan, không bị xử tử hình thì cũng bị giam chung thân nên rất nhiều người đã trốn sang Việt Nam, và ông K cũng là một trong số đó…."


-----------------------------------------------------------
Đó là quá khứ đầy bi thương của ông K, còn hình săm trên bàn tay ông, đó là biểu tượng của phù thủy hàng Thiên đẳng trong gia tộc họ Vương, người trong nghề phù thủy ai cũng biết cả. Vậy nên hai ông A và N mới kính cẩn với ông như vậy.

Sau khi nghe xong câu chuyện bố em cũng bùi ngùi về số phận ông, cả hai người cùng lăng đi một lúc. Ông K lên tiếng phá tan sự im lặng : " Chú chờ tôi tý, tôi lấy cho chú cái này" Nói đoạn, ông đi vào nhà trong, rồi ông lấy ra hai quyển sách, một quyển đã ngả vàng một quyển xem chừng còn mới. Ông đưa cho bố em, bảo giở ra xem, bố em giở ra thì thấy trong mỗi quyển toàn là hình vẽ loằng ngoằng ngang dọc, nhưng một quyển thì viết bằng chữ Trung Quốc, còn một quyển mới thì viết bằng chữ quốc ngữ, trong đó ghi toàn là các câu khẩu quyết, chiến ý, cách làm bùa phép, xem tướng, đoán vận số,…. Bố em đọc xong thì mới hiểu ra đây là "cuốn sách giáo khoa" của thầy phù thủy. Sau đó thì ông K hỏi bố em nhớ được bao nhiêu, bố liền đọc lại cho ông nghe những chỗ mình nhớ, cả quyển thì bố nhớ được ba phần. Ông K nghe xong gật gù khen: "Vậy là chú giỏi! Người thường học quyển này phải mất hơn hai chục năm mới tinh thông. Nhưng tôi xem tướng chú không phải là người có duyên với nghề này, nói thật với chú, cái nghề này nó bạc lắm chú ạ, đời tôi khốn nạn cũng vì nó đó chứ!". Nhưng ông K vẫn dạy cho bố em cách xem tướng, cách coi chân gà, cách giải chết trùng, cách tính ngày giờ chết của một người đang bệnh nặng,… ông nói là để tiện đường giao thiệp về sau, tự khắc sẽ có ích. Sau đó, ông K bỗng nâng quyển sách cũ viết bằng tiếng Trung lên rồi bảo bố em:" Chú nhớ cái thằng tướng dởm lần trước đến tìm tôi chứ! Cái thằng đó trước là học trò của tôi đấy! Lúc còn học tôi, nó ngoan lắm, nhưng một hôm tôi về nhà thì bắt gặp nó đang ăn trộm quyển sách này, tôi liền đuổi theo giật lại được, nhưng mà nó thì chạy mất, lấy được phần ba quyển sách từ trang đầu….Nhờ có mấy trang sách đó mà nó dần dân leo lên cái ghế tư lệnh quân đoàn, nhưng số trời khó cái, nó đã dùng nghề này để cầu lấy tiền tài thì giờ tai họa đổ xuống đầu nó! Lần trước nó tìm về đây là muốn xin tôi cứu mạng, nhưng ai dám cãi lại mệnh trời? Nó làm thì nó chịu thôi!" - Ông K lại thở dài nhìn xa xăm ra ngoài phía cánh đồng, rồi ông vứt luôn hai quyển sách vào trong lò lửa, tất cả tài nghệ của ông đều sẽ theo ông xuống mồ hết.
Thấy ông buồn nên bố em liền đổi chủ đề, làm cho không khí vui hơn. Thời đó, người sát mạn biên giới về đều đồn là ở Sơn Tây bên Tàu có phái biết thuật dẫn thi, có thể bảo quản xác chết từ chiến trường dẫn về quê quán( Cái nì là Cương Thi trong phim của Lâm Chánh Anh đấy các thím ợ!). Bố em liền đem chuyện này ra hỏi ông K thì ông cười ngặt nghẽo, ông bảo:
-Cái đó hồi tôi còn ở trong nước cũng nghe nhiều, nhưng chưa thấy hoặc biết ai có thể làm như vậy cả, có mấy lần nghe tiếng có người biết làm, tôi đều đến xem, hóa ra toàn là lũ bịp bợm. Còn phái Sơn Tây đó thì đúng là có thật, nhưng họ ít giao tiếp với người trong nghề, bùa chú của họ tôi cũng có biết chút ít, nó là loại bùa rất kì dị, là loại pha trộn giữa nhiều loại bùa chú với nhau, thuật dẫn xác thì tôi biết, đơn giản chỉ là dẫn một cái xác chết đi đi lai lại, sai nó nấu cơm quét nhà, chẻ củi gánh nước hay tát ao thì được chứ nói làm phép để bảo quản xác chết thì tôi không tin. Vì chỉ cần ngưng làm phép lên xác là nó rữa ra ngay lập tức, mà cái trò dẫn xác này tổn âm đức lắm, chỉ có mấy ông mới vào nghề, ngựa non háu đá thì làm để kiếm người phụ việc thôi
Chuyện thứ sáu: Lươn cộ
Cạnh làng em là một con sông dài, chảy thẳng ra biển, có chỗ thì thu hẹp lại chỉ rộng tầm trăm mét, có chỗ thì ăn sâu vào tận trong lòng những dãy núi rỗng ruột như quả bàu, rộng đến vài ba cây số. Ở cái khoảng sông chảy ngầm trong lòng núi đó, luôn là một điều gì đó bí ẩn với người dân quê em từ xưa cho đến tận bây giờ. Nhiều người nói rằng, ở dưới những khoảng ngầm đó là những hang hốc ăn sâu ra tận biển, là nơi trú ngụ của những con cá cụ đã vài chục tuổi, con nào con nấy to bằng cả cái thuyền nan, nó há mồm một cái thì nuốt trọn cả người lớn, dù hù dọa như vậy nhưng bọn trẻ con vẫn không tài nào bỏ được cái trò tắm sông.
Đó là vào một buổi sáng mùa hè năm 70, như moi khi, bọn trẻ chăn trâu thả trâu lên triền núi cho gặm cỏ rồi nhảy ùm ùm xuống tắm, cái bãi tắm này mới được khám phá gần đây, lại gần với chỗ sông chảy ngầm nên nước mát lạnh , màu hè tắm thì cứ gọi là thích phải biết. Đang tắm thì một đứa ngồi trên bờ hét toáng lên rồi réo gọi cả đám lên, cả lũ thấy đứa bé này khóc thì chạy hết lên bờ, hỏi làm sao thì nó chỉ tay xuống nước, cả bon nhìn xuống rồi cùng khóc thét lên, dưới nước, chỗ chúng nó vừa bơi,giờ đang có một con cá trê đen trũi há mồm lên mặt nước ngáp ngáp lấy khí thở, nhưng mà, con cá trê to bằng cả cái thuyền nan. Tiếng khóc của lũ trẻ làm động tới mấy người đốn củi và thợ săn, người canh dê trên núi, tất cả tức tốc lao xuống. Và không chỉ trẻ con mà cả người lớn gồm hơn hai chục người cũng há hốc mồm kinh hãi, dưới nước là con cá cụ trùi trùi, to bằng nửa cái thuyền đang bơi lởn vởn quanh bờ. Ngay lập tức một ông thợ săn giơ khẩu súng kíp lên nhằm thẳng con cá định bắn thì một người ngăn lại. Người này bảo hãy chờ gọi người làng ra rồi bắt, không ít người thế này, mà đạn thì yếu, không biết có giết được nó không, nó mà thù thì cả làng không yên. Một lúc sau thì dan làng tới, ai cũng kinh ngạc, xì xào bàn tán về con cá cụ kia. Nhưng con cá này lại rất dạn người, đông người như thế mà nó vẫn bơi vòng vòng quanh bờ như không có gì. Sau khi đã bàn bạc xong, tất cả thống nhất là sẽ ném mìn cho con cá không chết thì cũng choáng, rồi súng kíp cứ thế mà bắn. Một tiếng hô vang: "Ném này!", rồi uỳnh uỳnh hai tiếng đinh tai nhức óc, nước bắn tung tóe, rồi súng kíp trên bờ cứ nhè chỗ bóng đen mà nã, một lúc sau thì màu con cá loang đỏ cả mặt nước. Dân làng hò nhau lấy dây thừng ra lôi con cá về rồi mở tiệc làm cỗ cho cả làng ăn. Trong đám cỗ, ai cũng vui vẻ, cười nói hỉ hả, chỉ có ba ông thầy là ông N, ông A và ông K là mặt đăm, ba ông chả ăn miếng cá nào, chỉ hớp vài li rượu rồi đi về. Người làng vẫn cứ vô tư ăn uống, không hề biết rằng mình đã ăn phải thứ không nên ăn, động vào thứ không nên động……..


Tobe Continued
Sau khi xin ý kiến các thím trên voz, em thấy tuy mình viết như kẹc nhưng các thím vẫn ủng hộ động viên nên em thấy vô cùng xúc động và hồi hộp, để không phụ lòng các thím, em quyết tâm viết các chap sau thêm chất lượng hơn.
Chuyện thứ sáu: Giải trừ tội nghiệt
Từ sau cái đợt mà dân làng em bắt được con cá cụ kia thì trong làng bắt đầu có lắm chuyện quái dị xảy ra. Buổi đêm, ngoài đường làng có tiếng móng ngựa gõ cồm cộp đi đi lại lại, sáng hôm sau ra đường thì chẳng thấy có dấu vết gì. Dân đi câu đêm và dân đi săn thú, bắt tắc kè trên núi thì sáng nào cũng về không, nhiều người nhà gần sông còn bảo dạo này hay có đứa tắm đêm, đêm nào cũng có tiếng đập nước ì ùm rồi tiếng cười láo xáo ngoài đê. Nhưng dân làng tuyệt không có ai dám hé phên cửa ra nhìn


Thấm thoát lại hai năm trôi qua, cả làng đang yên ổn làm ăn cấy cày thì bỗng nhiên, thầy V, ông thầy già nhất trong số sáu ông thầy ngày trước giờ đã từ trần, lúc này ông cũng ngót trăm tuổi. Trước lúc mất, ông đuổi hết mọi người ra rồi gọi ông K và ông N vào, ba người nói chuyện rì rầm trong buồng mà không ai nghe được. Ngay hôm đó, ông K, ông N và ông A tức tốc bắt tàu vào thẳng trong Thanh Hóa, dặn trước là đúng hai tuần nữa thì về, mọi người ở nhà trong hai tuần này phải chú ý giữ gìn này nọ,….. Ba ông đi được hai hôm thì ở nhà có chuyện động trời, máy bay Mỹ ném bom đánh phá miền bắc ném xuống làng một quả bom, cả làng không có nhà nào bị nhưng mà chỗ quả bom rơi trúng là…..chỗ chôn cái chum nhốt vong 25 năm trước. Khỏi phải nói các thím cũng tưởng tượng ra cái sự hoảng loạn của dân làng đến thế nào rồi, cả làng ăn không ngon ngủ không yên, ba thầy kia thì đi hết chưa về nên chẳng biết tính thế nào. Người thì chuyển về quê nội, quê ngoại để lánh nạn, người thì chạy lên Hà Nội tìm đường buôn bán,…

Nhưng mà vẫn chưa có gì xảy ra, dù vậy thì cả họ nhà em cũng dọn vào ở trong khuôn viên của nhà thờ tổ, hi vọng oai của cụ tổ sẽ bảo vệ được cho người trong họ. Hoạt động trong làng giờ cái gì cũng phải "tập thể"



Đang ngồi thì có tiếng đập cổng rầm rầm, mà giờ đang ở nhà của ông bà nội em, bố với chú muốn chạy sang nhà thờ họ cũng không được, thế là hai anh em cứ ôm chặt lấy nhau, mặc cho ra sao thì ra. Một lúc sau thì tiếng đập cửa lại vang lên liên hồi, từ ngoài cổng tiếng bà nội vọng vào: "Hai thằng kia đâu sao để nhà cửa tối thế này! Ra mở cổng nhanh không tao vào thì quắn đít!" Chú em mừng rỡ, chạy ra định mở cửa thì bố em gàn lại, chỉ vào con chó đang chui dưới gậm giường. Mọi khi con này nghe thấy tiếng bước chân bà nội là vẫy đuôi chạy ra ngay, hôm nay thi cứ rúc trong gậm giường mà gằm ghè, chốc lại nhấm nhẳng cắn một tiếng. Lúc bấy giờ chú em mới chột dạ, bố em bảo chú ra đục hai cái lỗ bé bé trên giấy dán cửa rồi nhòm ra, hai người vừa kê mắt vào nhìn thì nghẹn họng không nói được tiếng nào, ngoài cổng không phải là bà nội mà là một cái bóng to trắng cao lêu nghêu, dễ phải đên ngang ngọn mít, người gầy như que củi, đang nhòm nhòm vào trong sân. Thế là hai anh em rụt vào, ôm chặt nhau, thở cũng không dám thở mạnh. Bỗng nhiên lại có tiếng đập cửa, rồi tiếng bà nội quát: "Thằng H.(bố em) đâu sao không xay lúa? Còn thằng D(chú em) học bài gì mà không bật điện lên, để tối thế này!" , con chó chui từ trong gậm giường ra vẫy đuôi mừng, không cắn nữa. Bố em biết chắc là bà đi lấy hàng về nên ra mở cửa. Vừa vào nhà, chú D khóc òa, chạy ra ôm lấy bà, mếu mào kể lại việc vừa nãy. Bà em vừa dỗ dành chú vừa hỏi xem hai đứa có làm sao không. Bố em thì thấy bà về rồi nên vững dạ, định xuống bếp xay nốt chỗ lúa thì bà túm lại, bảo để trời mai trời sáng hẵng xay. Đêm hôm đó, cả ba thức trắng tới sáng.
Ba ngày sau thì ba ông K, N, A về từ lúc đêm, mấy nhà gần đường cái bảo có cả một ông khách cao to về cùng nữa, nhưng không nhìn rõ mặt. Về làng, sau khi biết chuyện cái chum bị trúng bom, ba ông chẳng to vẻ gì ngạc nhiên, bảo ông V đã tính trước là có chuyện nên bảo bảo đi là đi lo việc này đây. Có người đánh bạo hỏi ông khách cao to kia đâu thì ba ông cứ ậm ừ mà không nói. Ông K bảo dân làng lấy sắt ra đúc thành 4 cái cột nhỏ tầm cái phích Liên Xô, chạm khắc nhiều thứ hoa văn kì quái mà ông K vẽ ra, để ông K làm phép rồi đem đi yểm. Cách làm phép của ông K rất khác lạ, chỉ đặt 4 cây cột lên bàn tế rồi phun rượu, đốt bùa xung quanh, rồi cầm 4 nhành đào gài vào trong ruột cột. Xong xuôi tất cả, ông K cho người chôn sâu xuống đất, chia làm bốn hướng Đ-T-N-B xung quanh làng.


Từ sau cái đợt ấy, làng em cũng đỡ bị ma quỷ phá rối. Ông N và ông A bảo: Lần đi đó, bọn ông đi vào tận trong đền vua Lê ở tận trong Thanh Hóa để xin một sắc gải tội cho thành hoàng, rồi lại lên đền thờ Đức Thánh Tản trên Ba vì, dâng sớ xin tội. Từ nay làng em sẽ không bị gì nữa, mấy cái oán linh bị Thánh Tản trừ rồi không còn gì hại nữa. Thế là người làng em lại trở về như cũ, cuộc sống lại quay trở về nếp sinh hoạt đúng nghĩa một làng quê. Nhưng mười năm sau, một đợt sóng mới lại nổi lên, lại một lần nữa làm khuấy động cuộc sống của cả cái làng bé nhỏ này, và lần này chỉ còn mình ông K đứng mũi chịu sào, dốc hết sức giúp cho làng em trước một biến cố khủng khiếp, có nguy cơ xóa sổ một ngôi làng.



Tobe Continued….
Chuyện thứ tám: Thần giữ của
Trải qua hơn 10 năm yên ổn làm ăn, dân làng khấm khá lên trông thấy. Thế rồi bất ngờ, Chiến Tranh Biên Giới nổ ra, người Trung Quốc đang ở Việt Nam đều trốn ra nước ngoài hoặc về nước hết. Ở làng em thì chi có mỗi minh ông K là người Tàu, ông cũng định về nước luôn vì Cách Mạng Văn Hóa đã kết thúc được vài năm, giờ về chắc không sao. Nhưng dân quê nghĩ cái ơn ông khó nhọc vì làng khi trước nên cứ nhất quyết giữ ông ở lại. Chính quyền xã nhiều lần đến bức bách ông vì tội "tuyên truyền mê tín dị đoan, chống phá thành quả Cách Mạng" nhưng phép vua thua lệ làng, người quê em tìm mọi cách bảo vệ ông K, xã thấy thế thì cũng không dám làm căng, hơn nữa ông cũng chưa làm gì có hại cả, và họ còn sợ những mối quan hệ của ông K, dây giưa vào với ông có khi mất luôn cả cái ghế ngồi.
Chiến tranh kết thúc, nhiều người trẻ tuổi về làng, mang theo những tri thức mới, hiểu biết mới. Trong mắt họ, những con người như ông K, những ngôi đền, ngôi chùa trong làng đều là tàn dư của chế độ phong kiến hủ bại, làm chậm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng mà người làng ai cũng kính trọng ông, ông lại có ơn với nhiều ông lắm chức quyền nên nếu gây khó dễ cho ông thì thật là vô phúc chạm phải vây rồng.


Bỗng một ngày, một đoàn khảo sát địa chất cả tây cả ta về làng, họ vào ngọn núi phía nam làng, đo đạ, lấy mẫu đất ở trong đó suốt hai ngày mới ra, lúc ra, ông nào ông nấy mặt tươi rói như bắt được vàng. Dân làng chẳng biết mấy ông định làm gì nên cũng mặc, nhưng với những cụ già cao tuổi thì các cụ biết họ định làm gì, ngày xưa, khi cách mạng về, các nhà địa chủ trong làng đều đem vàng bạc, của cải giấu vào trong núi đấy. Suốt hơn 40 năm nay chẳng ai dám động vào vì họ biết địa chủ không tốt đến thế, tự nhiên đem vàng giấu không vậy, ắt là họ còn phải yểm bùa, đặt tinh độc vào trong để bảo vệ, lắm kẻ còn đồn thổi rằng trong đó có cả Cô Yêu- thần giữ của.
Người ta bảo, thần giữ của là một dạng phép của người Tàu, đem một cô gái đồng trinh, bỏ vào trong hầm, trói vào một cái ghế, cho ăn bùa bả gì đó trước rồi nhét sâm quý vào miệng, cốt để duy trì mạng sống. Sau rồi cứ thể bỏ rũ xác trong đấy. Từ đó trở đi, chỉ những người mang dòng máu của nhà chủ mới được vào kho tàng lấy của, còn người ngoài vào thì sẽ bị Cô Yêu vật chết ngay.

Chỗ ngọn núi đó, quê em goi là núi Cô Yêu, hàng năm cứ đến ngày lập thu là cúng cấp để tỏ lòng kính sợ, mong cô đừng có làm khó dễ người có việc qua núi. Mọi chuyện cũng chẳng có gì đáng nói nếu ma- người riêng biệt, nước sông không phạm nước giếng. Bỗng một đêm mùa đông năm 84, một đoàn xe ben, máy xúc, xe chở hàng ùn ùn kéo vào núi Cô Yêu. Sáng hôm sau, dân làng biết được thì họ đã dựng lều xong rồi, hỏi thì một anh kĩ sư đưa ra tờ giấy, nói đây là đất thuộc quyền quản lý của Nhà Nước nên Nhà Nước cho người đến khai thác đá. Tiếng là vậy nhưng ai cũng biết tỏng mấy ông che mắt cấp trên, nói là khai thác đá nhưng thực chất là đến đào của rồi ăn chia nhau. Thế rồi mặc cho dân ngăn cản, máy xúc đã bổ nhát gầu đầu tiên xuống nền đất. Nhưng nhát gầu vừa bổ xuống thì chim chóc quanh núi bay loạn xạ, kêu váng trời, thú rừng cũng thi nhau chạy trốn, bỗng một con trăn gió to như cái cột nhà vít dây, đu mình từ cây này sang cây khác, tiếng rít gió ù ù, nghe mà ghê người. Thế là từ dân cho đến cán bộ đồng loạt tháo chạy sạch, công nhân, kĩ sư chạy hết, bỏ cả máy móc, thiết bị.

Năm ấy, ông K cũng đã già lắm rồi, lại thêm lang bạt nhiều năm, sương gió đời người nên giờ ông ốm luôn, toàn ở bệnh viện tỉnh nhiều hơn ở nhà. Mấy tuần nay, ông lại lên cơn hen nên hôn mê bất tỉnh, ở viện được vài ngày rồi. Vậy nên ông không biết ở làng có chuyện xảy ra, dân làng cũng ngại, kẻ thì chẳng muốn dựa mãi vào mấy ông thầy phù thủy, người thì sợ làm ảnh hưởng đến sức khỏe ông nên chẳng ai dám lên viện thông báo.
Nhóm kĩ sư khai thác đã kia mới làm việc được bốn ngày mà đã thấy "thành quả", hôm đầu tiên, họ đào lên được một hòm toàn tiền Đông Dương, tính giá trị ra cũng phải tới vài trăm triệu. Hôm tiếp theo thì đào lên được một cái hũ lớn, cả đám ngừng làm, hè nhau nạy cái nắp ra xem được bao nhiêu vàng. Nhưng vừa nạy nắp ra thì ông công nhân cầm xà beng ngã lăn ra đất, tai, mũi mồm trào máu ra, mắt trắng dã, trợn trừng chỉ lên ngọn cây, không nói được câu nào rồi chết tại chỗ, trong hũ là một cái đâu người còn tươi nguyên



Sau khi mấy ông kĩ sư bỏ đi, người làng em ai cũng nghĩ sẽ lại được trở về những ngày cày cấy thanh bình trước đây. Nhưng chuyện vốn dĩ chẳng hề đơn giản như vậy bởi, giờ, nước sông và nước giếng đã phạm nhau rồi.


…….Tobe Continued…..
Chuyện thứ chín: Quýt làm cam chịu
Kể từ sau cái đợt kĩ sư, công nhân vào đào xới ở trong núi Cô Yêu rồi bỏ đi vì sợ quá không ở được. Bẵng đi 2 tháng, trong làng bắt đầu có chuyện.
Lúc bấy giờ, ở quê em đang có mốt xem phim chưởng nhập lậu từ Trung Quốc về. Tối nào trai làng cũng kéo nhau lên quán bia nhà ông C thọt để xem, đến tầm 11h đêm thì về. Phải nói lúc đó, ở quê như có bệnh kiếm hiệp, từ truyện đặt tên cho con những cái tên đậm chất Kim Dung như: Nguyễn Bá Thông, Trần Tĩnh, Phạm Trùng Dương, Lê Hồ Xung





Chuyện bắt đầu từ đêm rằm tháng giêng, một đám trai làng vừa đi xem phim về, còn đang bàn tán sôi nổi thì thằng Y., mới 5 tuổi đi theo anh trai xem phim bỗng chỉ tay về phía bụi tre, ngọng nghịu nói: "Các anh ơi! Cô cô kìa, cô cô đang khinh công trên ngọn cây kìa!"


Tất cả cũng chỉ có vậy thì cũng chẳng có gì đáng kể cho lắm. Mấy bữa sau thì nhà ông Q, con thầy S ngày xưa làm đám cưới cho cháu, cả làng cùng đến chúc mừng, ai cũng khen hai đứa đẹp đôi, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Đến tối, dân làng về gần hết, chỉ còn mấy nhà hàng xóm gồm nhà em, nhà ông T và nhà ông D là ở lại giúp ông dọn dẹp, dọn dẹp xong thì tất cả cùng ngồi trà nước phía ngoài hiên, để dành cả dãy nhà sau cho đôi vợ chồng trẻ. Đang lúc trà dư tửu hậu vui vẻ thì tự nhiên hai con chó mực xích ngoài hiên lồng lên, cắn nhát gừng ra phía nhà sau, rồi gà vịt bay loạn xạ, kêu quang quác khắp vườn, con trâu cột ở sau đồng rơm cũng khua sừng lộp cộp, chỉ muốn dứt thừng mà chạy




Lúc lên nhà trên, mọi người xúm vào hỏi ông sao ông lại biết phép phù thủy thì ông trả lời là do bố ông dạy, nhưng học chưa đến nơi đến chốn thì bố ông mất nên thôi, từ ngày ấy đên giờ ông chưa từng dám dùng phép, hôm nay vì cấp bách quá nên phải dùng vậy thôi. Sáng hôm sau, từ lúc gà chưa gáy sáng thì mọi người đã bị dựng dậy bời tiếng kêu làng phát ra từ phía nhà bà P bán dưa cà muối ở xóm giữa. Mấy nhà hàng xóm chạy sang xem có chuyện gì thì thấy bà P đang ngồi thu lu bên bàn nước, đầu tóc bù xù, nhìn lên giường thì thấy ông A chồng bà đã chết, người vẫn còn đắp chăn. Mọi người hỏi sao thì bà P nghẹn ngào: "Nào tôi biết tại sao! Sáng nay lúc tôi đi mua lòng lợn, cổ hũ về cho ông ý ăn sáng, lúc về gọi ông ý dậy mà mãi không thấy thưa, tôi mới mở chăn ra thì….Ối ông ơi là ông ơi! Sao ông bỏ tôi lại ông ơi" Cả làng ai thấy thế cũng sụt sùi, ông A và bà P trước nay rất tốt, hòa thuận với xóm làng, ai cũng quý, con cháu thì đứa nào cũng học cao rồi lên thành phố, mỗi tháng lại vè nhà đem tiền cho bố mẹ. Hai ông bà thì yêu nhau sâu đậm từ hồi còn trẻ, đến tận bây giờ vẫn cứ quấn lấy nhau, ông đi đâu thì bà theo đó, bà đi chợ thì ông lóc cóc đạp xe chở bà đi, hàng xóm xung quanh chưa bao giờ thấy hai ông bà nói nặng với nhau câu nào. Có thể nói vợ chồng ông bà có một cuộc sống đáng để nhiều người mơ ước.

Sau đám tang ông A, làng em liên tiếp xảy những cái chết bất ngờ, tai nạn có, không rõ nguyên do cũng có. Đầu tiên là anh G, đang làm cầu đường trong Thanh Hóa thì tự nhiên lại bị xe lu cán chết. Mấy anh làm cũng bảo đang ngồi nghỉ chờ xe lu cán xong đường thì tự nhiên anh G lao ra đứng ngày trước xe lu, người lại vội tắt máy đi thì đã muộn, anh G đã bị cán quá nửa người, anh vẫn sống nhưng không hề kêu đau lấy một tiếng, cứ cười xong lại khóc, trên đường đưa vào viện cũng vẫn thế, rồi anh chết trong viện, miệng vẫn nở nụ cười. Sau đó là ông N, thầy pháp, đang ngồi uống nước bên vệ đường tự nhiên ông đứng phắt dậy, lăm lăm kiếm nhìn quanh, tối hôm đấy về nhà ông chẳng bệnh gì mà tự nhiên mất. Rồi lại đến ông A, buổi tối làm lễ cho đám tang ông N thì tự nhiên ông A rú lên rồi ngất đi, máu từ tai với mồm cứ phụt ra như suối, trước lúc chết, ông A chỉ tay về hướng núi Cô Yêu rồi phều phào nói: "Bằng mọi giá phải gọi được ông K về, bảo ông ý là " Hỏng mất trấn phía Nam rồi, hỏng mất rồi!"

Mấy ngày sau, lại có thêm hai người chết bất đắc kì tử, cả làng trắng một màu khăn tang, thợ mộc làm quan tài không kịp, phải sang cả làng bên mua. Đúng lúc đó thì ông K về,…


….Tobe Continued…..